Không xây dựng “university” đúng chất là cản trở để có đại học đẳng cấp thế giới
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, kinh nghiệm từ các nước cho thấy thông thường có 3 cách để tạo nên đại học đẳng cấp thế giới.
Sự tách rời giữa hệ thống các trường đại học và các viện nghiên cứu lớn, và việc vắng mặt các trường đại học đa lĩnh vực là hai tàn tích của mô hình Liên Xô cũ. Đây chính là hai cản trở lớn làm cho khối các nước kinh tế chuyển đổi có rất ít trường đại học đẳng cấp thế giới.
Việt Nam muốn sớm có các trường đại học đẳng cấp thế giới thì cần quyết tâm cao trong việc khắc phục các cản trở nói trên. Đó là quan điểm của Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) khi chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam.
Qua nghiên cứu, Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhận thấy, thông thường đại học đẳng cấp thế giới sẽ được thể hiện ở 3 khía cạnh.
Thứ nhất, cơ sở giáo dục đại học đó tập trung nhiều tài năng (bao gồm cả sinh viên, giảng viên), xuất sắc.
Thứ hai, đó là ngôi trường có vật lực, tài lực dồi dào.
Thứ ba, có hệ thống quản lý, quản trị tốt, thuận lợi.
“Ba đặc điểm này tạo nên đại học đẳng cấp thế giới, có chất lượng cao. Ở nhiều nước, vài thập niên gần đây họ quan tâm nhiều tới đại học đẳng cấp thế giới, kể cả các nước khu vực Đông Nam Á”, Giáo sư Lâm Quang Thiệp đánh giá.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), ảnh: Thùy Linh.
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp, kinh nghiệm từ các nước cho thấy thông thường có 3 cách để tạo nên đại học đẳng cấp thế giới.
Một là, chọn lựa một số cơ sở giáo dục đại học đang có rồi nâng cấp lên.
Hai là, thực hiện sáp nhập một số trường khác nhau tạo thành một đại học lớn để phát triển.
Ba là, thành lập một trường mới hoàn toàn. Cách này tốn kém nhiều nhất.
Tại Việt Nam, việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam được bắt đầu cách đây 15 năm. Theo đó, năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập Tổ công tác xây dựng Đề án thành lập trường đại học đẳng cấp quốc tế. Giai đoạn đầu triển khai dự án, có 2 trường đại học theo mô hình mới là trường Đại học Việt-Đức ở Bình Dương và trường Đại học Khoa học và Công nghệ (trường Đại học Việt-Pháp) ở Hà Nội. Đến nay 2 đại học này chưa lọt vào top nào.
Video đang HOT
Nhìn nhận về bảng xếp hạng thế giới THE 2022 vừa công bố Việt Nam có 5 đại diện trong đó Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường Đại học Duy Tân cùng ở thứ hạng 401-500;
3 cơ sở giáo dục đại học còn lại là: Đại học Quốc gia Hà Nội (thứ hạng 1001 – 1200), Đại Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường đại học Bách khoa Hà Nội cùng thứ hạng 1201 , phải nói rằng, đây là 5 cơ sở giáo dục đại học không thực hiện theo Đề án năm 2006 của Chính phủ.
Nhìn vào thứ hạng của 2 trường lọt top 401-500, Giáo sư Lâm Quang Thiệp cho rằng, bảng xếp hạng này cho thấy cơ chế tự chủ đại học đã giúp Trường Đại học Tôn Đức Thắng bứt phá rất nhanh, từ một đại học không tên tuổi gì, vị trí rất thấp trong hệ thống đại học Việt Nam sau hơn chục năm đã trở thành đại học xuất sắc được vinh danh trong TOP 500 đại học tốt nhất thế giới bởi Tổ chức xếp hạng đại học thế giới thuộc Thời báo Times vào năm 2021 với dữ liệu tích lũy từ tháng 8/2015 đến tháng 8/2020.
Còn trường Đại học Duy Tân là một cơ sở giáo dục đại học tư thục trên địa bàn miền Trung còn nhiều khó khăn nhưng họ đã rất nỗ lực, cố gắng để có được kết quả này.
Qua bảng xếp hạng cũng thấy được rằng, hai Đại học Quốc gia được đầu tư rất nhiều nhưng kết quả vẫn chỉ dao động ở top 1001 – 1200.
Lý giải điều này, Giáo sư Lâm Quang Thiệo chỉ ra rằng, lý do 2 đại học quốc gia chưa đạt được kết quả cao do việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế ban đầu là trở thành một đại học đa lĩnh vực, lý do chủ yếu là các trường thành viên phản đối việc sáp nhập, vì mất nhiều “ghế” quản lý và “trường” bị hạ cấp thành khoa. Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế tổ chức được xây dựng theo mô hình đại học hai cấp.
Theo mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, sự kết nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng của “đại học” thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp, giống như các “bộ đại học” nhỏ. Các đại học “hai cấp” ở nước ta không phát huy được các thế mạnh của mô hình “university”.
Trước hết, các trường thành viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh vực, lại liên kết với nhau rất lỏng lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo, nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng đào tạo theo chương trình giáo dục khai phóng không thể hiện được.
Cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để tăng hiệu quả.
Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình đại học quốc gia nên Ngân hàng Thế giới đã có một văn bản góp ý chính thức khi xây dựng Luật Giáo dục đại học 2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó.
Bởi họ nói rằng đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam (“is unique to Vietnam”) và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We have not come across this set up in any country in the world”).
Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một mô hình “không giống ai” trên thế giới, và có nhiều nhược điểm. Theo họ, các nhược điểm đó là: “Không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn.
Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực. Các cơ sở đại học phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính.
Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rãi.”
“Các nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm của mô hình đại học hai cấp mà chúng tôi đã nhiều lần phát biểu”, Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhấn mạnh.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp khẳng định: “Rõ ràng việc hai đại học lớn nhất ở nước ta không được xây dựng theo mô hình “university” thật sự là một cản trở lớn để chúng phấn đấu trở thành đại học đẳng cấp thế giới.
Và muốn giảm bớt những cản trở trên con đường phấn đấu để có các trường đại học đẳng cấp thế giới, chúng ta cần thay đổi hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu và điều chỉnh các mô hình đại học để có các đại học đa lĩnh vực thật sự để đáp ứng 3 yếu tố của đại học đẳng cấp thế giới như đã nêu”.
Cuối cùng, Giáo sư Thiệp cho rằng, cơ chế quản trị đại học hiện nay quan trọng nhất là tự chủ. Trường Đại học Tôn Đức Thắng thành công chính là nhờ tự chủ đại học tuy nhiên ở ta nhiều chủ trương đã được Nhà nước đưa ra, quy định trong Luật tuy nhiên không được quán triệt triệt để ở các cấp thực hiện do đó đã gây nhiều hạn chế, vướng mắc cho cơ sở giáo dục.
“Cần có Nghị định riêng cho các trường đại học tự chủ để đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần và nguyên tắc tự chủ đồng thời quán triệt sâu sắc đến cơ quan quản lý trực tiếp. Phải hoàn thiện hành lang pháp lý đảm bảo đồng bộ, nhất quán thì tự chủ đại học mới đi vào thực tiễn cuộc sống.
Bởi lẽ, ngay như tự chủ ở Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã có một Quyết định riêng (Quyết định số 158/QĐ-TTg) của Chính phủ tuy nhiên khi triển khai thực hiện thì vướng vì hệ thống văn bản pháp lý đang mâu thuẫn dẫn đến hệ quả như thời gian vừa qua”, Giáo sư Thiệp nói.
Thế mạnh của đại học đa lĩnh vực (university):
Một là , các đại học đa lĩnh vực sẽ đào tạo sinh viên tốt ở phần giáo dục đại cương, phần rất quan trọng của kiến thức đại học mà chỉ trong các university mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt các chương trình giáo dục này.
Hai là , các đại học đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy. Và đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu của từng nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Việc phát triển 2 đại học quốc gia không theo đúng như thiết kế
Theo Giáo sư Lâm Quang Thiệp: "Việc triển khai xây dựng các đại học quốc gia theo mô hình đại học đa lĩnh vực diễn ra không được suôn sẻ".
Vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường đại học mạnh cho nước ta, Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế các đại học này và Bộ đã đề nghị xây dựng hai đại học quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh theo mô hình đại học đa lĩnh vực. Thay đổi mô hình các cơ sở giáo dục đại học là một trong những chủ trương quan trọng của đổi mới giáo dục đại học. Tuy nhiên việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế.
Chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Lâm Quang Thiệp - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết: "Việc triển khai xây dựng các đại học quốc gia theo mô hình đại học đa lĩnh vực diễn ra không được suôn sẻ, theo nhiều tình huống khác nhau".
Giáo sư Lâm Quang Thiệp phân tích, đối với Đại học Quốc gia Hà Nội, Nghị định 97/CP ngày 10/12/1993 đã quyết định sáp nhập Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Nghị định này được thực hiện rất khó khăn vì có nhiều ý kiến khác nhau. Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm được nhập một cách máy móc nhưng không "hòa hợp" được.
Một trong các phản ứng gay gắt là ý kiến bảo vệ kiểu trường Đại học Sư phạm chỉ đào tạo giáo viên theo mô hình đơn lĩnh vực của Liên Xô. Sau một thời gian nhập mà không hòa, năm 2000 Trường Đại học Sư phạm lại được quyết định tách ra khỏi Đại học Quốc gia Hà Nội.
Giáo sư Lâm Quang Thiệp (ảnh: Thùy Linh)
Đối với Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh một tình huống khác đã diễn ra. Vào đầu thời kỳ đổi mới, khoảng năm 1988, quy mô các trường đại học nước ta đều rất nhỏ bé, thường dưới một nghìn sinh viên, nên phương án sáp nhập 9 trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để thành lập Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đã được đề xuất, và Nghị định 16/CP của Chính phủ ngày 27/1 /1995 đã quyết định trên tinh thần đó.
Tuy nhiên, đến khi thực hiện các phương án này vào năm 1995 thì quy mô các trường đại học đơn ngành đã tăng lên rất nhiều, do đó việc nhập quá nhiều trường đại học đơn ngành sẽ tạo nên một đại học đa lĩnh vực quá lớn. Đó là lý do mà vào năm 2001 Chính phủ quyết định tổ chức lại và giảm bớt quy mô của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh bằng cách đưa ra ngoài bớt một số trường thành viên.
Rõ ràng, những khó khăn về tổ chức trong quá trình thành lập các đại học quốc gia đã dẫn đến một hệ quả đáng tiếc, đó là: các đại học đa lĩnh vực không giữ được mô hình university như đã thiết kế. Một trong các lý do thực chất làm cho các trường thành viên phản đối khi được sáp nhập, đó là khả năng mất nhiều "ghế" quản lý, và quan niệm "trường" bị hạ cấp thành "khoa".
Các nhà tổ chức phải thỏa hiệp bằng cách hứa hẹn giữ nguyên vị trí các trường thành viên, không thay đổi các chức vụ quản lý trước đây, do đó các quy chế được xây dựng theo mô hình các đại học hai cấp. Theo mô hình này, hoạt động trong các trường thành viên hầu như vẫn giữ như cũ, kết nối giữa các trường thành viên với nhau rất lỏng lẻo, và cấp quản lý trên cùng của "đại học" thực hiện một cơ chế quản lý trung gian gián tiếp, giống như các "bộ đại học" nhỏ.
Rõ ràng, "mô hình đại học hai cấp" chỉ là một giải pháp tình thế trong quá trình xây dựng các đại học đa lĩnh vực chứ không phải mô hình của những người thiết kế mong muốn, mô hình này không giữ được thế mạnh của mô hình đại học đa lĩnh vực và làm nảy sinh một số vấn đề về tổ chức.
Theo đó, Giáo sư Lâm Quang Thiệp nhấn mạnh rằng, các đại học hai cấp ở nước ta không phát huy được các thế mạnh của mô hình "university". Trước hết, các trường thành viên quan hệ lỏng lẻo và hầu như hoàn toàn độc lập với nhau về đào tạo nên ưu thế về nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt đối với mảng giáo dục đại cương và các môn khoa học cơ bản, đã không thể hiện được.
Cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để nâng cao hiệu quả. Sự thiếu gắn kết giữa các trường thành viên cũng không tạo thuận lợi trong việc đáp ứng thị trường lao động.
Ngay văn bản của World Bank khi nhận xét về dự thảo Luật Giáo dục đại học nước ta năm 2018 trong đó đặc biệt lưu ý đến mô hình các đại học quốc gia. Trước hết họ nói đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam ("is unique to Vietnam") và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới ("We have not come across this set up in any country in the world"). Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một mô hình "không giống ai" trên thế giới.
Về nhược điểm của các đại học quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Lâm Quang Thiệp trích đầy đủ ý kiến của các chuyên gia World Bank. Theo họ, các nhược điểm đó là:
"Không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức và tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn.
Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực.
Các cơ sở đại học phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính. Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rãi."
Nói như vậy để thấy mô hình hiện tại của các đại học quốc gia một sản phẩm có tính "biện pháp tình thế" trong quá trình đổi mới giáo dục đại học, gặp nhiều vấn đề gay cấn, làm cho các cơ sở đó không phát triển mạnh mẽ như mong muốn. Nhược điểm của mô hình hiện tại của đại học quốc gia và đại học vùng chẳng những được cảm nhận bởi các chuyên gia và các nhà quản lý giáo dục đại học trong nước, mà còn được vạch rõ bởi các chuyên gia giáo dục đại học quốc tế dựa trên kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học thế giới.
Là người có theo dõi diễn biến của việc xây dựng các đại học quốc gia trong quá trình đổi mới giáo dục đại học, Giáo sư Lâm Quang Thiệp cho rằng, tốt hơn hết các cơ sở giáo dục đại học quan trọng của hệ thống giáo dục đại học nước ta nên xây dựng theo mô hình university (đại học đa lĩnh vực) thực sự, không nên sử dụng mô hình đại học hai cấp.
"Muốn vậy, tùy theo điều kiện cụ thể nên xử lý một đại học hai cấp nào đó ở nước ta theo một trong 2 giải pháp: Một là cho phép các trường thành viên đơn ngành đơn lĩnh vực phát triển thành các university, và đại học hai cấp biến thành một tập đoàn các university với sự liên kết rất lỏng lẻo.
Hai là, đại học hai cấp chuyển thành một university đơn nhất thực sự, thay đổi bộ phận điều phối trung gian thành cấp điều hành trực tiếp, toàn bộ university có một chương trình đào tạo chung. Có như vậy mới tăng cường chất lượng và hiệu quả của chúng, vì các cơ sở giáo dục đại học đó có tác động quan trọng và lâu dài đến sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học nước ta", Giáo sư Thiệp nhấn mạnh.
Trường đại học trong đại học không phải mô hình đại học đa lĩnh vực - university Giáo sư Lâm Quang Thiệp - nguyên Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, việc các trường hướng tới đại học đa lĩnh vực là xu hướng tốt. Hiện nay nhiều trường đại học đang dự kiến thời gian hướng tới trở thành "đại học", đa ngành, đa lĩnh vực trong 3- 5 năm nữa...











Tin đang nóng
Tin mới nhất

Còn nhiều băn khoăn về chứng nhận giỏi cấp tỉnh với học sinh điểm IELTS cao

Việc thực hiện chương trình, SGK mới còn nhiều khó khăn

Cấp phép tổ chức thi chứng chỉ HSK trở lại

Banner tìm hiểu ngày 22/12 của Trường ĐH Tôn Đức Thắng in hình lính Mỹ

Nhiều tỉnh cho học sinh nghỉ Tết hơn 10 ngày, Hà Nội lý giải nghỉ 8 ngày

Trường ĐH Kiên Giang dự kiến tuyển hơn 1.600 chỉ tiêu năm 2023

Trường Đại học Hồng Đức nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên ngành giáo dục mầm non

Học sinh Hà Giang nghỉ Tết Quý Mão 12 ngày, từ 27 tháng Chạp

Nhiều tiết dạy sáng tạo tại hội thi giáo viên dạy giỏi Hà Nội

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân công bố Đề án tuyển sinh đại học năm 2023

Tuyển sinh 2023: Đại học Kinh tế Quốc dân công bố đề án tuyển sinh

Cần cẩn trọng lựa chọn nhân sự, ra đề thi
Có thể bạn quan tâm

Bắt gã giang hồ cầm đầu 30 đàn em bảo kê mặt biển ở Kiên Giang
Pháp luật
09:26:25 11/05/2025
Cách ăn mới tốt cho quá trình trao đổi chất và giảm cân
Sức khỏe
09:16:01 11/05/2025
Trailer Squid Game 3: NSX gạch tên V và 1 sao nam hollywood, lợi dụng BTS?
Hậu trường phim
09:08:21 11/05/2025
Doãn Hải My đọ sắc sau sinh với con gái đại gia Minh Nhựa, bức ảnh "toát mùi" giàu nhưng thay đổi lớn sau một năm
Sao thể thao
09:05:47 11/05/2025
Ngoại hình điển trai của Đoàn Thế Vinh - Vũ công đóng vai chính trong "Lật mặt 8"
Sao việt
09:02:05 11/05/2025
Hàng chục nghìn người đội mưa xem dàn "Anh trai say hi" hát và... khóc
Nhạc việt
08:56:41 11/05/2025
Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
Du lịch
08:53:49 11/05/2025
"Nữ chính ngôn tình" Sooyoung (SNSD): Gia thế và sự nghiệp miễn chê, có mối tình 13 năm "ngọt nhất showbiz", giờ còn "chào sân" Hollywood!
Sao châu á
08:45:13 11/05/2025
Ngày của Mẹ 11/5: Hãy nấu 5 món ăn phù hợp và bổ dưỡng dành cho các bà, các mẹ!
Ẩm thực
08:31:40 11/05/2025